Những tháng cuối năm 2012 có những thông tin làm chúng ta
phải suy nghĩ về hiện tình của đất nước. Bản tương trình về năng lực cạnh tranh
toàn cầu (2012-2013) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho thấy Việt Nam tụt
10 hạng so với năm ngoái.
Hiện nay, trong số 144 nền kinh tế trên thế giới, Việt Nam xếp ở hạng 75, vị trí thấp nhất kể từ khi tham gia xếp hạng.
Cho dù
bảng xếp hạng của WEF còn vài vấn đề cần bàn thêm về mặt phương pháp, kết quả
trên cũng đáng báo động, nhất là trong mục tiêu công nghiệp hoá đất nước vào
năm 2020.Hiện nay, trong số 144 nền kinh tế trên thế giới, Việt Nam xếp ở hạng 75, vị trí thấp nhất kể từ khi tham gia xếp hạng.
Tri thức là một yếu tố chủ đạo cho sự cạnh tranh toàn cầu
trong thế kỉ 21. Những xã hội thành công là những xã hội biết khai thác tri
thức để có lợi thế trên thế giới. Bởi vì đại học là nơi mà tri thức được sáng
tạo, nên hệ thống đại học đóng vai trò cực kì quan trọng trong các chính sách
khoa học. Vị thế và năng suất của hệ thống đại học đã trở thành một mục tiêu
chiến lược và cũng là một chỉ tiêu về năng lực cạnh tranh toàn cầu của một quốc
gia. Tuy nhiên, những dữ liệu mới công bố gần đây cho thấy Việt Nam đang tụt
hạng về năng lực cạnh tranh toàn cầu. Sự tụt hạng xảy ra ở 3 chỉ tiêu chính:
trí tuệ, kinh tế tri thức, và đẳng cấp của đại học.
Bảng xếp hạng của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (World
Intellectual Property Organization – WIPO) cho thấy Việt Nam đứng hạng 76 trên
141 nước về khả năng sáng tạo và cách tân. Thứ hạng của Malaysia là 65, Thái
Lan là 57, và Singapore 3 [1]. Thật ra, thứ hạng này cũng khá nhất quán với số
bằng sáng chế được đăng kí ở Mĩ. Báo cáo của UNESCO cho thấy trong thời gian
2000 - 2007, các nhà khoa học Việt Nam chỉ đăng kí được 19 bằng sáng chế, tức
mỗi năm trung bình chỉ 2 bằng sáng chế. Có năm (như 2002, 2011) không có bằng
sáng chế nào được đăng kí.
Các chỉ số kinh tế tri thức của Việt Nam cũng thấp hơn so
với các nước trong vùng. Theo báo cáo của Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn
hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) năm ngoái [2], Việt Nam đứng hạng 106 trên 145
về kinh tế tri thức. So với năm 1995, thứ hạng của Việt Nam tăng 14 bậc. Song
so với các nước tương đương trong vùng, kinh tế tri thức của Việt Nam thấp nhất
(Indonesia hạng 103, Philippines hạng 89, Thái Lan 63, Malaysia 48 và Singapore
hạng 19). Việt Nam thậm chí còn ở thứ hạng thấp hơn cả bán đảo Fiji (hạng 86)!
Cho đến nay, không có một đại học nào nằm trong danh sách
các đại học hàng đầu thế giới [3]. Mới đây, theo kết quả phân tích và xếp hạng
của nhóm Quacquarelli
Symonds (QS), Châu Á có 65 trường nằm trong nhóm Top 400. Trong
các nước châu Á, Nhật có 16 trường và Trung Quốc có 9 trường. Riêng khối ASEAN
(10 nước), có 11 trường có tên trong danh sách Top 400. Mười một trường này
thuộc 5 nước: Thái Lan (2), Malaysia (5), Indonesia (1), Philippines (1), và
Singapore (2). Không một đại học nào của Việt Nam lọt vào danh sách “Top 400”.
Tương tự, không một đại học nào của Việt Nam được xếp vào các bảng Top 400 hay
Top 500 của các nhóm như THE (Times Higher Education) hay ARWU (Academic
Ranking World Universities).
Nói tóm lại, trong cả 3 chỉ tiêu về kinh tế tri thức, số
bằng sáng chế, và xếp hạng đại học, Việt Nam đang ở một vị thế thấp và bất lợi.
Một mẫu số chung có thể giải thích sự tụt hậu về khả năng cạnh tranh toàn cầu
của Việt Nam. Do đó, dịp cuối năm là thời gian lí tưởng để nhìn lại tình hình
hoạt động qua phân tích ấn phẩm khoa học công bố quốc tế.
Nghiên cứu khoa học được định nghĩa như là một qui trình
sáng tạo tri thức mới hoặc/và sử dụng tri thức hiện hành một cách mới mẻ và
sáng tạo để phát triển những khái niệm mới, những phương pháp mới, hay hiểu
biết mới. Nghiên cứu khoa học có thể bao gồm cả việc tổng hợp và phân tích
những nghiên cứu trước để mở rộng những thành tựu mới. Định nghĩa khoa học trên
đây bao trùm cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Nghiên cứu cơ bản là
những theo đuổi rất cụ thể về một đề tài mà có thể không dẫn đến những ứng dụng
cụ thể nào trong tương lai gần (có người ví von trong nghiên cứu cơ bản nhà
khoa học đặt câu hỏi trên mây). Nghiên cứu ứng dụng là những điều tra khoa học
nguyên thuỷ nhằm sáng tạo ra tri thức mới nhưng nhắm đến việc ứng dụng cụ thể.
Trong vài năm gần đây, trong quá trình hội nhập quốc tế,
vấn đề hoạt động khoa học và năng suất nghiên cứu khoa học ở nước ta đang được
đặt ra khá nhiều lần. Nhưng đánh giá năng lực khoa học của một nước không
đơn giản chút nào, vì thành tựu của nghiên cứu khoa học thường không thể cân đo
đong đếm như sản phẩm kĩ nghệ.Không giống như hoạt động sản xuất kĩ nghệ với
những sản phẩm vật chất cụ thể mà công chúng có thể sử dụng được cho cuộc sống
hàng ngày, sản phẩm của nghiên cứu khoa học -- nhất là nghiên cứu khoa học cơ
bản -- thường mang tính trừu tượng, rất ít khi nào gần gũi trực tiếp với người
tiêu dùng. Trong nhiều trường hợp, thành tựu của nghiên cứu khoa học chỉ hiển nhiên
sau vài mươi năm sau khi công trình nghiên cứu hoàn tất. Chẳng hạn như các nhà
vật lí học nghiên cứu về khả năng truyền dẫn hình ảnh qua fibre optics trong
thập niên 1950, nhưng mãi đến 30 năm sau mới tìm được ứng dụng của thành tựu
này qua việc phát triển các máy nội soi trong y khoa. Tương tự, khám phá về vai
trò của testosterone (một hormone nội tiết) được phát hiện trong thập niên
1930, nhưng phải chờ đến 40 năm sau mới tìm thấy ứng dụng trong lâm sàng và
chăn nuôi.
Mặc dù các phương pháp sử dụng để đánh giá khả năng khoa
học vẫn còn trong vòng tranh cãi, nói chung cộng đồng quốc tế nhất trí rằng có
thể sử dụng một số chỉ tiêu để xếp hạng khả năng khoa học giữa các nước. Chỉ
tiêu quan trọng nhất là số lượng bài báo khoa học và số lần trích dẫn (còn gọi
là citation index). Số lượng bài báo khoa học phản ảnh “sản lượng” của một nền
khoa học, và mức độ hoạt động khoa học của một nước. Số lần trích dẫn cho từng
chuyên ngành cũng có thể phản ảnh chất lượng các công trình nghiên cứu.
Số lượng ấn phẩm khoa học
Năm 2012 (số liệu chưa đầy đủ), các nhà khoa học Việt Nam
công bố được khoảng 1200 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế có bình
duyệt. Năm 2011, con số này là 1324. Nếu tính từ 1970 đến 2011, tổng số ấn phẩm
từ Việt Nam là 10745. Con số này chỉ bằng 22% của Thái Lan, 27% của Malaysia,
và 11% của Singapore. Thật ra, so với các nước lớn trong vùng, số bài báo khoa
học của Việt Nam là thấp nhất (Bảng 1).
Bảng 1. Số
bài báo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế
|
|||||
Nước
|
1970-79
|
1980-89
|
1990-99
|
2000-11
|
1970-2011
|
Việt Nam
|
156
|
448
|
1702
|
8425
|
10745
|
Thái Lan
|
1427
|
3651
|
6573
|
37640
|
49317
|
Malaysia
|
1288
|
2426
|
5243
|
31353
|
40349
|
Indonesia
|
323
|
1087
|
2579
|
7992
|
11988
|
Philippines
|
830
|
1984
|
2799
|
6849
|
12503
|
Singapore
|
1080
|
3877
|
17272
|
75641
|
97931
|
Nguồn: Số liệu thu thập từ ISI Web of Science, cập nhật
20/10/2012.
Trong thực tế, số bài báo khoa học của Việt Nam chỉ bắt
đầu tăng đáng kể sau năm 2000. Trong khi đó, sự tăng trưởng của các nước Thái
Lan và Malaysia bắt đầu từ những năm đầu thập niên 1990. Biểu đồ 1 thể
hiện sự tăng trưởng về số ấn phẩm khoa học của trong thời gian 1966 đến 2011.
Tính trung bình, mỗi số bài báo khoa học từ Việt Nam tăng trưởng khoảng 13% mỗi
năm. Tỉ lệ này cũng rất tương đương với các nước như Thái Lan (12%), Malaysia
(11%), Indonesia (12%). Tuy nhiên, tỉ lệ tăng trưởng của Việt Nam cao hơn
Philippines (7.5%), nhưng thấp hơn Singapore (15%).
Biểu đồ 1: Số ấn phẩm khoa học từ 1966 đến 2011 của các
nước trong khối ASEAN.
Nguồn: ISI Web of Science 20/10/2012
Thay đổi lĩnh vực nghiên cứu
Trong 30 năm qua đã có một số biến chuyển đáng chú ý
trong xu hướng nghiên cứu khoa học ở nước ta. Trong thập niên 1980, phần lớn
những công trình nghiên cứu tập trung vào hai ngành toán học và vật lí, nhưng
thập niên 1990 cho đến nay, y sinh học trở thành một lĩnh vực nghiên cứu có
nhiều ấn phẩm khoa học nhất. Thật vậy, trong thập niên 1980-89, 1/3 tổng số bài
báo khoa học của Việt Nam là thuộc lĩnh vực toán học, và hơn 1/4 là thuộc lĩnh
vực vật lí; nhưng đến thập niên 2000-2011 thì số bài báo của hai lĩnh vực này
chỉ chiếm ~29% tổng số bài báo khoa học (Bảng 2). Trong khi đó, số bài
báo liên quan đến lĩnh vực y sinh học vào thập niên 1980-89 chỉ ~7%, nhưng đến
thập niên 1990-99 thì chiếm gần 32% tổng số bài báo khoa học. Số ấn phẩm về hoá
học cũng giảm theo thời gian, trong khi đó các lĩnh vực như kĩ thuật, máy tính,
khoa học vật liệu và cơ học thì không thay đổi đáng kể trong suốt 30 năm qua.
Bảng 2. Tỉ
trọng (%) một số lĩnh vực khoa học 1980 – 2011
|
|||
Lĩnh vực
nghiên cứu
|
1980 – 1989
|
1990 – 1999
|
2000-11
|
Y sinh học
|
6,7
|
31,9
|
27,6
|
Toán học
|
33,2
|
24,4
|
13,6
|
Vật lí
|
25,6
|
21,6
|
15,2
|
Hoá học
|
10,1
|
6,2
|
8,2
|
Kĩ thuật, máy
tính, khoa học vật liệu, cơ
|
12,6
|
15,5
|
12,5
|
Nguồn: Số liệu thu thập từ ISI Web of Science, cập nhật
20/10/2012.
Biểu đồ 2 trình
bày kết quả phân tích ấn phẩm khoa học của Việt Nam (1966-2011) theo lĩnh vực
nghiên cứu. Có thể nói phần lớn (68%) những ấn phẩm khoa học công bố quốc tế
của Việt Nam tập trung vào 3 ngành: y sinh học, vật lí, và toán học. Thật vậy,
gần 40% những ấn phẩm khoa học Việt Nam liên quan đến lĩnh vực y sinh học, kế
đến là vật lí (15%), và toán (14%). Các lĩnh vực quan trọng như hoá học, kĩ
thuật và khoa học vật liệu, mỗi ngành chỉ chiếm khoảng 4-5% tổng số ấn phẩm
khoa học của Việt Nam.
Biểu đồ 2: Mười lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam
Những dữ liệu trên đây cho thấy nghiên cứu khoa học trong
năm 2012 (qua ấn phẩm công bố quốc tế) vẫn chưa có một sự đột biến tích cực. Có
thể rút ra 2 điểm chính từ phân tích này:
Thứ nhất là năng suất khoa học còn thấp. Tuy con số ấn
phẩm có tăng, nhưng tỉ lệ tăng trưởng không cao hơn các nước láng giềng. Hệ quả
là tổng số ấn phẩm khoa học của Việt Nam còn thấp hơn số ấn phẩm khoa học của
một đại học lớn của Thái Lan (như Chulolongkorn hay Mahidol) và Malaysia (Đại
học Malaya). Những con số này cần đặt trong bối cảnh Việt Nam có hơn 9000 giáo
sư và khoảng 24000 tiến sĩ. Trong thực tế, chỉ có khoảng 30% giáo sư làm trong
các đại học, và khoảng 30% (thậm chí thấp hơn) các tiến sĩ thực sự làm khoa học
có công bố quốc tế. Điều này nói lên rằng năng suất khoa học của các nhà khoa
học còn rất thấp.
Thứ hai là càng ngày càng có nhiều nghiên cứu y sinh học
hơn. Trước năm 1990, gần 60% các công trình nghiên cứu của Việt Nam chỉ tập
trung trong hai lĩnh vực toán và vật lí. Nhưng nay chỉ riêng ngành y sinh học
chiếm gần 1/3 tổng số bài báo khoa học quốc tế. Số lượng ấn phẩm khoa học ngành
toán của Việt đã thấp hơn Thái Lan và Malaysia. Nếu xem chuyển hướng nghiên cứu
sang ứng dụng thì một xu hướng tích cực, thì sự phân bố công trình nghiên cứu
trong thời gian qua của nước ta là tích cực. Tuy nhiên, khả năng ứng dụng của
các nghiên cứu Việt Nam vẫn còn là một dấu hỏi.
Nếu những dữ liệu trên đây nói lên một thông điệp, tôi
nghĩ đó là thông điệp hoạt động khoa học Việt Nam cần một cuộc cải cách lớn.
Nếu không, chúng ta sẽ tiếp tục tụt hậu và thua kém các nước
trong vùng. Do đó, để nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế,
thiết nghĩ Nhà nước ngoài việc nâng cao hiệu suất đầu tư cho khoa học và công
nghệ và cải cách hệ thống hoạt động nghiên cứu khoa học, cần phải bắt đầu phát
triển các chuẩn mực cho các nhà khoa học, kể cả tiêu chuẩn giáo sư, sao cho phù
hợp với các chuẩn mực quốc tế và không quá xa rời thực tế ở nước ta.
Nguyễn Văn Tuấn - nguyenvantuan.net