Ba
Cang:
Đọc
tựa đề Thằng “Bùm” đã thấy lạ, đi vào cốt truyện thấy lạ hơn. Bạn cứ đọc đi,
ngay khúc dạo đầu của truyện sẽ thấy ngay mà.
Này
nhé, khi biết tin người đã chết, tác giả -người kể chuyện cho biết cảm xúc của
mình: “Mừng cho anh!”, một câu gần với dạng cảm thán, rất ngắn – chỉ có 3 từ
cùng 1 dấu chấm than, lại đơn độc một mình một dòng giữa khối chữ mênh mông.
Mừng cho sự chết của một con người? Thế thì phải đọc tiếp rồi.
Có
hoàn cảnh nào tương tự hoặc cực khổ hơn mẹ con nhà Trừng? Cái khổ ở đây cả về
vật chất, tinh thần và sức khỏe. Cái khổ của người xuất thân chưa từng khổ, cái
khổ cứ kéo dài âm ỉ. Rất may còn có những người hàng xóm tốt bụng.
Từ
nhỏ đến bây giờ, tôi mới được đọc văn miêu tả về “chim”. Tục mà không tục. Tả
chân là chân thật. Rất sinh động và xúc động.
“Quỷ
thật”, càng đọc càng hấp dẫn. Người đọc như tôi bị lôi cuốn bởi giọng văn chân
thật đó, như tác giả tự nhận với cốt truyện mình kể. Xuất xứ của cái tên Thằng
“Bùm” và sau đó là cả một chuỗi thời gian cay đắng của sự tồn tại và phát triển
cái “vũ khí đặc biệt” của Thằng “Bùm”. Cái vũ khí này được miêu tả vừa hài vừa
bi, mà bi thì nhiều hơn.
Đoạn
kết buồn, nhưng có lẽ là dấu lặng dành cho sự nghĩ suy.
Có
một số chỗ của truyện tôi thấy băn khoăn. Viết “Trường Hoàn Kiếm nằm dưới chân
nhà thờ Lớn”, dễ làm cho người đọc chưa từng đặt chân tới đây có thể sẽ hình
dung khu vực này như là quả đồi. Từ “Hanoi” viết sai chính tả liên tục. Mới
nhìn thấy nhân vật mà người đọc đã biết đôi chân của cậu là “hậu quả của căn
bệnh sốt bại liệt”. Dùng từ “xinh đẹp” khi kể về “đứa con trai đầu lòng của họ
ra đời” liệu có phù hợp không? Câu “Hôm ấy Trừng tròn hai tuổi.” lại cho xuống
dòng thì không logic theo mạch văn. Nhà máy Bóng đèn phích nước Rạng Đông (bây giờ
là Công ty cổ phần Bóng đèn phích nước
Rạng Đông) nằm trên đất Hạ Đình, quận Thanh Xuân, chứ không phải Hà Đông. Chỉ
có từng ấy chỗ, tạm gọi là hạt sạn, nhỏ thôi.
Cuối
cùng và tóm lại, một cây bút nghiệp dư mà viết được như thế này quả là đáng
đọc.
Chúc
mừng Xang Hứng và xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một truyện ngắn của ông
đăng trên blog Hiệu Minh.
22-23/12/2013
Ba
Cang tái bút:
Chiều
hôm qua, chủ nhật, vào Hiệu Minh blog và đọc một mạch truyện này, rồi viết luôn
lời còm, được nửa chừng phải đi công việc.
Sáng
nay, ngồi nhà, tranh thủ chuẩn bị cho đợt đi công tác mới, lại hứng khởi viết
tiếp lời còm.
Xang Hứng: Thằng “Bùm”
Lần
đầu tiên trong đời, khi nghe cái tin anh “Bùm” chết, ngoài cảm giác trống rỗng
xót thương như mỗi khi được tin ai đó từ trần, một thứ cảm xúc lớn hơn tất cả
đã đến với tôi:
Mừng
cho anh !
Bùm
chẳng phải người quen hay kẻ thù mà chỉ như một hình ảnh, một ký ức thoáng qua
về những con người tôi đã từng gặp trong hơn năm chục năm sống trên cõi đời
nhiều màu sắc, nhiều mùi vị và lắm biến cố này.
Trường
Hoàn Kiếm nằm dưới chân nhà thờ Lớn. Khi Mỹ tuyên bố tạm ngưng ném bom Hanoi,
trường đã mở cửa trở lại. Chúng tôi từ những nơi sơ tán lại trở về, cùng nhau
đi học. Dạo ấy các lớp được sắp xếp theo nguyên tắc: những học sinh nào ở gần
nhà nhau sẽ học chung lớp. Buổi sáng khi đi học cũng như buổi trưa lúc tan học,
cả lớp sẽ xếp hàng hai từ nhà đến trường và ngược lại. Lộ trình của lớp chúng
tôi bao giờ cũng đi qua Ngõ Huyện.
Phố
Ngõ Huyện ngày nay. Nguồn ảnh: Internet.
Còn
đang ở trong tình trạng chiến tranh nên lúc này Hanoi vẫn khoác trên mình một
màu xám xịt, chưa sầm uất, ồn ào, lòe loẹt như bây giờ. Khắp các con phố, nhà
nào cũng đóng cửa im ỉm vì chủ nhân của chúng còn bận tham gia “Sản xuất và sẵn
sàng chiến đấu”.
Đặc
biệt cuối Ngõ Huyện có một căn nhà nhỏ với cánh cửa luôn mở toang.
Trong
bóng tối nhớp nháp, âm u của căn phòng lụp xụp, chúng tôi nhìn thấy một thân
hình chẳng ra người cũng chẳng phải ngợm ngồi thu lu, chân bị buộc vào tường
bằng một sợi dây thừng to tướng. Cái thân hình quặt quẹo đó chỉ cử động, trở
nên hoạt bát khi nghe thằng dẫn đầu lớp tôi cất tiếng gọi: “Bùm ơi”.
Trên
môi nở nụ cười méo xệch; hai cẳng chân tong teo, hậu quả của căn bệnh sốt bại
liệt bắt đầu nhúc nhích. Chống một tay xuống sàn nhà, tay còn lại nhanh nhẹn
thò vào trong chiếc quần đùi rộng thùng thình mà không ai có thể nhận ra nó đã
từng có màu gì, anh ta lôi ra một vật mà thoạt nhìn tôi không biết đó chính là
“con chim” của anh.
Nheo
một mắt, tay cầm cái chim to như quả chuối, loang lổ đất cát chĩa vào chúng
tôi. Vẩy mạnh chim, từ cái miệng vẫn cười méo mó kia phát ra một âm thanh lớn,
trầm:
“Bù…
ù mmm”.
Bọn
con trai cười ngả nghiêng khoái chí, con gái hai tay che mặt thẹn thùng xấu hổ.
Chúng kêu ré lên như lũ lợn bị chọc tiết rồi chạy thục mạng trong những tiếng
“Bùm – bùm” hệt tiếng đại bác bắn theo.
Anh
có cái tên thật kêu: Đinh Công Trừng. Kết quả của tình yêu giữa người thợ in có
tay nghề cao của một nhà xuất bản danh tiếng Hanoi và cô thiếu nữ xinh đẹp quê
ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Cảm mến chàng trai Hanoi nghèo nhưng có chí, cô
thiếu nữ con nhà địa chủ vùng chiêm trũng đã theo người yêu lên Hanoi, cùng
chàng chia sẻ ngọt bùi, thiếu thốn tại chốn đô thành ồn ào náo nhiệt. Một năm
sau ngày cưới, đứa con trai đầu lòng của họ ra đời tại nhà bảo sanh Đặng Vũ
Lạc: cân nặng 4kg2, xinh đẹp, khỏe mạnh.
Nhưng
“Ngày vui ngắn chẳng tày gang”. Khi Trừng chỉ mới gần hai tuổi, đám mây đen của
cuộc “Cải cách ruộng đất” đã bao trùm lên toàn bộ làng mạc xóm thôn miền Bắc.
Những cuộc đấu tố, thanh trừng diễn ra ác liệt. Cả gia đình bên ngoại Trừng bị
tòa án di động của xã mang ra xét xử từ những ngày đầu cuộc cải cách. Chàng
trai nghèo Hanoi không chịu đấu tố gia đình nhà vợ, không chịu chỉ mặt gọi bố
vợ là thằng, thà chết vẫn không tố mẹ và vợ mình bóc lột dân nghèo.
Với
tội “ngoan cố, bao che cho bọn địa chủ cường hào ác bá, không biết ăn năn hối
cải để nhận sự khoan hồng của chính phủ”, cái gia đình hạnh phúc, nề nếp, có
trên có dưới kia sau phiên tòa “công khai minh bạch” và bản án “đanh thép” của
những ông bà “bần cố nông”, với sự chủ trì của những con quỷ mặt người dạ thú
nay chỉ còn sót lại mẹ con Trừng. Cái tên anh đã ám vào số phận gia đình anh !
Tận
mắt nhìn những người thân bị nã vào ngực, vào đầu những viên đạn oan nghiệt, mẹ
Trừng ôm con khóc ngất. Câm nín trong nỗi sợ hãi sợ tột cùng, chú bé chỉ còn
biết bấu chặt vai mẹ, chết lặng.
Hôm
ấy Trừng tròn hai tuổi.
Hai
mẹ con sống nhờ vào tình thương của những người dân trong làng. Chôn cất chồng
và cha xong, bà mẹ trẻ bế con chạy trốn khỏi cái nơi cô đã từng được sống những
năm tháng hạnh phúc bên cha mẹ chăm chỉ, hiền lành mẫu mực và hết lòng thương
yêu gia đình, giúp đỡ chòm xóm. Một thân một mình, bà ẵm con nhỏ lên Hanoi.
Căn
nhà chật hẹp của hai vợ chồng ở Ngõ Huyện trở thành chốn nương thân cuối cùng
của họ. Từ một cô thôn nữ chỉ biết cả ngày quanh quẩn trong nhà lo cho chồng
con, bà đã phải nghiến răng xén đi mái tóc óng ả, cắt cụt những bộ áo dài màu
sắc tươi tắn, nhuộm tất cả thành màu xám rồi gửi đứa con còn nhỏ cho hàng xóm,
bà xin vào làm công nhân tại nhà máy “Bóng đèn-phích nước”, Hà Đông.
Chú
bé Trừng lớn lên trong nghèo khó: thiếu sữa thì thay bằng nước cơm loãng, bệnh
tật thì phó mặc cho Trời vì lương và tiền bán máu của mẹ chú chỉ đủ trang trải
cho những nhu cầu thiết yếu.
Năm
1958, miền Bắc bị dịch sốt bại liệt hoành hành. Nhà nghèo nên chẳng đào đâu ra
Vaccine. Sau một tuần sốt cao li bì, từ một đứa trẻ lành lặn, nay Trừng đã
thành ra cậu bé tật nguyền. Cặp giò vốn dĩ khỏe mạnh, nhanh nhẹn đã teo tóp
quặt quẹo chỉ còn to bằng cổ tay, không thể tự đứng lên. Điều tệ hại nhất là
chú mất luôn khả năng nói. Cái miệng xinh xắn hôm qua nay chỉ phát ra những âm
thanh ú ớ, chẳng còn nhận ra là tiếng của con người.
Nhân
dịp có đoàn bác sỹ từ thiện từ các nước “XHCN anh em” sang thăm khám bệnh,
Trừng được chiếu cố xếp hàng đầu. Sau khi nghe kết luận của các bác sỹ, mẹ
Trừng chết lặng. Họ bảo: đứa trẻ không những bị di chứng của bệnh sốt bại liệt
mà thứ gây ảnh hưởng nặng nề nhất cho nó là cú sốc tinh thần, nó phải tận mắt
chứng kiến cảnh kinh hoàng khi ông ngoại và bố mình bị giết bằng cặp mắt và tâm
hồn trẻ thơ non nớt.
Gạt
nước mắt bế con ra về, bà mẹ đành xin nghỉ làm công nhân tại nhà máy để ở nhà
chăm sóc con. Ngày ngày đi chợ sớm rồi gánh trên vai vài nải chuối, mớ rau, bà
đi quanh những con phố Hanoi từ sáng đến khuya rao bán hàng mong kiếm vài hào
bạc mang về nuôi đứa con tật nguyền.
Năm
1965, một hôm khi hai mẹ con bà đang ngồi thu lu trong góc nhà, ôm nhau run rẩy
giữa tiếng bom rền của những đợt máy bay Mỹ oanh tạc Thủ đô Hanoi, xen lẫn
tiếng chân rầm rập của các lực lượng tự vệ khu phố chạy qua. Cậu bé Trừng giật
nảy mình lên khi cặp mắt lờ đờ của cậu nhìn thấy bóng những người trong bộ
trang phục mũ cối, quần áo xanh màu Ô-liu xuất hiện. Sau một thời gian rất lâu,
người mẹ bỗng nhận ra nụ cười đã nở trên đôi môi khô héo của con bà.
Chống
một tay xuống sàn nhà, tay còn lại nhanh nhẹn thò vào trong cái quần đùi rộng
thùng thình của mình, Trừng móc con chim lúc ấy hãy còn bé tí xíu ra. Chĩa chim
vào đoàn quân trước ngõ, cậu nheo mắt ngắm nghía cẩn thận, rồi từ cái miệng câm
lặng bấy lâu phát ra những tràng tiếng: “Bùm, bùm, bùm…”.
Cái
tên “thằng Bùm” có từ dạo ấy.
Tai
họa, nỗi đau quá lớn không quật ngã nổi bà mẹ xấu số. Càng thương con, càng đau
khổ, bà càng can đảm. Quẳng gánh hàng rong đi, bà ghi tên theo học lớp y tá.
Cầm tờ giấy chứng nhận trong tay, bà xin được một chân hộ lý tại bệnh viện
Radium (nay là bệnh viện K. 43, Quán Sứ-Hà Nội).
Những
người hàng xóm tốt bụng đã chung vai gánh vác nỗi bất hạnh của gia đình bà.
Những khi bà trực, họ thay nhau tắm rửa, dọn vệ sinh cho Bùm. Ngày hai bữa, họ
mang cơm cho Bùm ăn và kiểm tra xem cái dây thừng thay cho sợi xích buộc cậu
vào góc nhà có còn chắc không.
Năm
12 tuổi, chúng tôi đã cao khoảng 1,60m. Lúc ấy, chắc Bùm khoảng 15-16 tuổi
nhưng bệnh tật đã làm một chàng trai lẽ ra đang ở cái tuổi sung mãn nhất trở
nên xấu xí, yếu ớt. Thân hình tàn tật, tiều tụy vì thiếu ăn trở nên một đống
nom rất kỳ quái: dưới cái đầu to bất thường là cái cổ cò gắn trên đôi vai gầy
guộc, xương sườn xương sống lòi hết ra. Hai cẳng chân mềm oặt đu đưa như hai
cọng bún thò ra từ chiếc quần đùi màu cháo lòng.
Duy
chỉ có một thứ mà chẳng có hoàn cảnh khó khăn nào, chẳng có bất hạnh thiếu thốn
nào, chẳng có bản án của một cuộc đấu tố tàn bạo nào có thể ngăn cản được sự
phát triển tự nhiên của nó: con Chim của cậu.
Bây
giờ mà ví thì tôi sẽ chọn xúc xích Mỹ để so sánh. Lúc bấy giờ chúng tôi chẳng
biết mặt mũi cây xúc xích ra sao nên đành ví với một loại củ quả gần gũi nhất:
Hệt như một củ khoai lang vĩ đại.
Cái
hủ tục bó chân của phụ nữ thời phong kiến Trung Quốc cũng có lý do của nó. Phàm
là vật gì cũng vậy, cứ bóp nghẹt chỗ này thì dứt khoát nó sẽ phình ra và phát
triển ở chỗ khác thôi.
Có
nhẽ chim của Bùm to và dài gấp sáu lần chim chúng tôi. Không dám tả kỹ kẻo các
bà các cô truyền thống, mô phạm lại kết án là tục. Nhưng không phải nói ngoa
chứ nó đúng y như vậy.
Thiên
tai, bệnh tật và cả con người đã tước đi của đứa trẻ bất hạnh là Bùm tất cả,
nhưng ông Giời vốn công bằng lại đền bù cho anh một “cây súng”, không phải súng
lục đâu nhé mà là một khẩu đại bác. Để anh bắn, không “bắn” như những con người
tầm thường với những dục vọng thấp hèn, nhưng để bắn những đứa đã đầy đọa mình,
đầy đọa gia đình mình. Dù “khẩu đại bác” ấy chẳng hề giết được ai vì nó làm gì
có đạn, tiếng nổ đanh thép của nó cũng phải nhờ đến sự hỗ trợ bởi âm thanh phát
ra từ cái mồm còn khỏe mạnh.
Từ
trong thế giới tăm tối, nhầy nhụa, tù túng của mình, Bùm bắn liên tục không
ngưng nghỉ. Bùm bắn những kẻ đã hành hạ, đã trêu chọc, giễu cợt anh. Những lúc
không có mục tiêu nào trong tầm ngắm, Bùm bắn chỉ thiên.
Ngoảnh
mặt lại, thời gian đã qua đi hàng chục năm, cảnh vật và con người thay đổi đến
chóng mặt. Từ những đứa bé con ngây ngô, ngốc nghếch hồn nhiên, nay lũ chúng
tôi đã trở thành những ông bà lão già ốm yếu, vô tích sự, thất bại. Sợ hết
thảy, chán hết thảy, không còn cả niềm tin.
Thân
xác thì còn tạm dùng được, nhưng nó cũng trở nên tàn tật khi niềm tin đã mất
hoặc nếu còn chút ít thì cũng đang hấp hối. Thời gian cũng đủ để nhớ về một
thời trai trẻ với những khát vọng lớn lao, đẹp đẽ, chưa thành.
Và
có lẽ chính Bùm, người đàn ông tàn tật về thể xác kia mới thật sự là người
Chiến Thắng, người Tự Do, người đã từng có những giây phút hạnh phúc về tinh
thần khi anh dám và được nắm trong tay của chính mình thứ vũ khí vô địch: Quyền
Hành Động, để rồi hiên ngang nhằm thẳng kẻ thù, anh trút lên đầu chúng, Trừng
trị bọn gian ác bằng những tràng đạn hủy diệt trong tiếng gầm vang giận dữ:
“Bùm
– Bùm – Bùm…” !
Xang
Hứng. 12-2013.